Phương Trình Hoá Học

Dầu mỏ là gì?

Dầu mỏ là một chất lỏng, sánh có trong lòng đất, màu từ nâu sẫm đến đen, có mùi đặc trưng, nhẹ hơn nước, không tan trong nước và cháy được. Thành phần chủ yếu của dầu mỏ là hỗn hợp các ankan, xicloankan, aren. Ngoài ra còn có một lượng nhỏ dẫn xuất chứa oxi, lưu huỳnh, nitơ.

Tìm kiếm khái niệm hóa học

Hãy nhập vào khái niệm bất kỳ để bắt đầu tìm kiếm

1. Nguồn gốc của dầu mỏ

Dầu mỏ là một chất lỏng, sánh có trong lòng đất, màu từ nâu sẫm đến đen, có mùi đặc trưng, nhẹ hơn nước, không tan trong nước và cháy được. Thành phần chủ yếu của dầu mỏ là hỗn hợp các ankan, xicloankan, aren. Ngoài ra còn có một lượng nhỏ dẫn xuất chứa oxi, lưu huỳnh, nitơ. 

Cho đến nay, vấn đề nguồn gốc dầu mỏ vẫn chưa được giải thích một cách thỏa đáng. Các giả thuyết về nguồn gốc dầu mỏ được hình thành trên hai hướng: nguồn gốc vô cơ và nguồn gốc hữu cơ. Một số nhà bác học tiếp tục các công trình theo hướng vô cơ như thuyết cacbon kim loại của Mendeleep, thế nhưng chính ông cũng thừa nhận dầu mỏ Baku thuộc nguồn gốc hữu cơ. Hiện nay, đa số nhà khoa học đều cho rằng dầu mỏ có nguồn gốc hữu cơ. Thuyết này dựa trên cơ sở nhiều loại dầu mỏ có chứa hợp chất của nitơ như clorophin, hemin cũng như các hidrocacbon hoạt động quang học. Điều này chứng tỏ dầu lửa không thể chịu tác dụng của nhiệt độ trên 250oC

Như vậy, dầu mỏ được tạo thành từ động vật hoặc thực vật tích lũy lâu ngày nằm dưới đáy đại dương, đầm hồ ở dạng bùn và chịu tác dụng của vi khuẩn trong điều kiện thiếu không khí. 

2. Thành phần và phân loại dầu mỏ

a. Thành phần

- Thành phần nguyên tố: thành phần nguyên tố của dầu mỏ như sau

Cacbon: 82-87%, hidro: 11-14%; lưu huỳnh: 0,01-7%, nitơ: 0,01 - 2%, oxi 0,01 - 7%, ngoài ra còn có một số nguyên tố khác chiếm hàm lượng không đáng kể.

- Các hợp chất hóa học: dầu mỏ là hỗn hợp phức tạp của các chất hữu cơ. Thành phần của nó thay đổi phụ thuộc vào nguồn gốc và địa chất từng vùng, song đều cấu thành từ hai loại hợp chất chính: hợp chất hidrocacbon và hợp chất không thuộc loại hidrocacbon có chứa các nguyên tố oxi, lưu huỳnh, nitơ trong đó các hợp chất hidrocacbon là chủ yếu và quan trọng nhất của dầu mỏ.

Các hợp chất hidrocacbon trong dầu mỏ gồm:

+ Hidrocacbon loại parafin

+ Hidrocacbon loại mạch vòng (xicloankan hay naphten)

+ Hidrocacbon loại thơm (Aren đơn vòng hoặc đa vòng ngưng tụ)

+ Hidrocacbon loại hỗn tạp naphten thơm.

Trong dầu mỏ không có anken hoặc ankin. Bằng các phương pháp phân tích hiện đại cho đến nay đã phát hiện được khoảng 425 hidrocacbon trong dầu mỏ

Các hợp chất không thuộc loại hidrocacbon trong dầu mỏ gồm:

- Các hợp chất chứa lưu huỳnh như: mecaptan, sunfua, thiophen...

-  Những hợp chất chứa oxi như axit, phenol, xeton, este, lacon.

- Các hợp chất chứa ni tơ thuộc loại piridin, quinolin, isoquinolin; các chất có 4 nguyên tử nitơ thuộc nhóm porphirin dưới dạng phức chất với V hoặc Ni.

- Nhựa và atphan:

+ Các chất nhựa là những chất lỏng nhớt, quành, màu nâu đen. Về cấu trúc, trong phân tử nhựa có chứa những hệ đa vòng ngưng tụ trong đó có bộ phận là vòng thơm, bộ phận là vòng naphten. Những hệ vòng ngưng tụ này mang các nhánh bao quanh, liên kết với nhau qua các dị tố (S,O).

+ Atphan là hợp chất rắn của dầu mỏ có màu nâu thẫm hoặc đen, đó là các sản phẩm ngưng tụ oxi hóa và trùng hợp hóa, các hidrocacbon thơm cao. Tỉ lệ cacbon/hidro trong atphan khá lớn, chứng tỏ mức độ ngưng tụ rất cao. Khối lượng phân tử từ 2500 - 3500. Atphan được kết tủa từ mazut.

2. Phân loại

Có nhiều cách phân loại dầu mỏ

a. Phân loại dựa trên cơ sở tỉ khối

- Loại dầu nhẹ, tỉ khối d(15/15) 0,828.

- Loại dầu trung bình, tỉ khối d(15/15) = 0,829 - 0,884. Dầu mỏ đảo Bạch Hổ VN thuộc loại này.

- Loại dầu nặng, tỉ khối d(15/15) 0,885

b. Phân loại theo thành phần hóa học

Theo thành phần hóa học trội hơn, người ta phân ra các loại dầu sau:

- Dầu parafin có thành phần parafin trên 61% như dầu Cận Đông, Nam Bocneo VN, Grozonui 

- Dầu naphten có thành phần xicloparafin khoảng từ 61 đến 76%.

- Dầu aren có thành phần hidrocacbon thơm khoảng 40% như ở Bocneo

- Dầu atphan, loại dầu có nhiều hợp chất chứa oxi và khi chế biến nó bị nhựa hóa nhiều.

3. Qúa trình chế biến dầu mỏ 

a. Xử lí ban đầu và chế biến sơ cấp

Khai thác dầu thô bất ngờ giảm

- Giai đoạn xử lí ban đầu chuyển dầu thô thành dầu gốc

Trước khi đưa vào chế biến sơ cấp, dầu mỏ được xử lí ban đầu, khử nước, phá hủy nhũ nước bằng cách đun nóng đến 50-160oC dưới áp suất 5-10 atm, dùng các chất hoạt động bề mặt, chất phá hủy nhũ để phá nhũ tương. Khi khử nước, các muối clorua vẫn còn hòa tan trong dầu nên phải dùng các thiết bị khử muối bằng điện. Sau khi tách nước và các tạp chất ta được dầu gốc để đưa vào chế biến sơ cấp.

+ Giai đoạn chế biến sơ cấp

Chế biến sơ cấp là giai đoạn chưng cất dầu mỏ bằng nhiệt qua các phân đoạn. Qúa trình chưng cất được tiến hành trong các tháp hình ống hoạt động liên tục theo nguyên tắc chưng cất phân đoạn. Những phân đoạn tách được có thể được sử dụng trực tiếp để chế biến thành các sản phẩm tương ứng: Phân đoạn xăng được sử dụng sản xuất xăng oto hoặc máy bay, phân đoạn dầu hỏa để sản xuất nhiên liệu cho động cơ phản lực hoặc dầu hỏa dân dụng, phân đoạn dầu diezen để sản xuất nhiên liệu diezen, phân đoạn mazut để sản xuất các loại dầu nhờn. Phần cặn mazut (500oC) còn lại chiếm khoảng 30 - 45% dầu thô để sản xuất parafin, atphan.

 + Nhiên liệu

- Phân đoạn xăng

Xăng là nhiên liệu dùng cho động cơ đốt trong có bộ chế hòa khí. Yêu cầu quan trọng là cháy đều đặn, không bị kích nổ.

 Nguyên nhân của hiện tượng kích nổ có liên quan tới cấu tạo của hidrocacbon trong xăng. Bởi vì các hidrocacbon dưới tác dụng nhiệt của xi lanh bị oxi hóa do oxi của không khí tạo thành các hidro peoxit. Hợp chất này không bền, rất dễ phân hủy thành các gốc tự do, tạo điều kiện để phát triển nhanh phản ứng cháy, làm tăng đột ngột áp suất và kích nổ. Nghiên cứu hiện tượng này cho thấy, các hidrocacbon không nhánh (n-parafin) rất dễ tạo các peoxit. Các naphten và olefin nằm ở trung gian. Bởi vậy, khi sử dụng xăng cần phải chống tính kích nổ của xăng.

Chỉ số octan: tính chống kích nổ được đặc trưng bằng chỉ số octan. Về trị số nó được biểu thị bằng số phần trăm thể tích isooctan (2,2,4-trimetylpentan) trong hỗn hợp với n-heptan. Thực tế cho thấy isooctan chống kích nổ tốt nhất, được quy ước là 100, còn n-hepten kém nhất có chỉ số là 0. Như vậy, một loại xăng có khả năng chống kích nổ tương đương với hỗn hợp gồm 70% isooctan và 30% n-heptan thì có chỉ số octan là 70.

Xăng thu được từ phân đoạn chưng cất trực tiếp dầu mỏ có chỉ số octan thấp và nhiều n-parafin và naphten, có rất ít hidrocacbon thơm và isoparafin.

- Phân đoạn dầu hỏa

Phân đoạn dầu hỏa được sử dụng làm nhiên liệu cho các động cơ máy bay phản lực và làm nhiên liệu sinh hoạt (Dầu hỏa).

Dầu hỏa thắp đèn và bếp: dầu hỏa thường lấy ở phân đoạn trong khoảng nhiệt độ từ 170-270 gồm từ C10 - C15. Yêu cầu dầu phải dễ dàng lên theo bấc, ngọn lửa sáng không khói và tàn. Các hidrocacbon thơm 2 vòng ngưng tụ, hợp chất chứa lưu huỳnh, nito không đảm bảo yêu cầu chất lượng. Ngược lại, các parafin góp phần nâng cao chất lượng dầu. Chất lượng dầu hỏa được đánh giá bằng chiều cao của ngọn lửa không khói tính bằng mm.

- Phân đoạn dầu diezen.

Dầu diezen được sử dụng làm nguyên liệu cho quá trình cracking và nhiệt phân. Đồng thời bản thân nó được trực tiếp sử dụng làm nhiên liệu cho động cơ diezen.Yêu cầu của nhiên liệu diezen là nhiệt độ tự bốc cháy thấp, thời gian chậm bốc cháy càng ngắn, động cơ làm việc càng tốt. Các hidrocacbon có nhiệt độ tự bốc cháy cao do đó không thích hợp.

b. Các phương pháp chế biến thứ cấp

- Cracking: về mặt hóa học dầu mỏ, là phản ứng cắt phân tử hidrocacbon thành các phần tử nhỏ hơn. Về mặt kĩ thuật chế biến dầu mỏ, là phương pháp điều chế xăng từ các phân đoạn có nhiệt độ sôi cao hơn.

- Nhiệt phân: là sự phân hủy các hidrocacbon hoặc phân đoạn của dầu mỏ dưới tác dụng của nhiệt độ ở trên 650oC trong áp suất thấp. Nhiệt phân cho sản phẩm khí là các anken và ankan từ C1 đến C4 cùng H2 và sản phẩm lỏng, trong đó các hidrocacbon thơm chiếm 70%. Từ các phân đoạn sản phẩm khí và lỏng này người ta sẽ tách được các hóa chất tinh khiết là chất đầu quan trọng của ngành Hóa dầu.

- Refoming xúc tác

Phương pháp này nhầm thay đổi cấu trúc của hidrocacbon theo hướng đồng phân hóa (tăng chỉ số octan) mà không gây ra những thay đổi đáng kể về khối lượng phân tử. Nguyên liệu của các phân đoạn xăng đã chưng cất được. Qúa trình được tiến hành ở áp suất hidro từ 35 -65 atm, nhiệt độ từ 450 - 500oC trên các xúc tác đa chức năng Pt, Pd, Ir, Ni hoặc các oxit kim loại gắn trên chất mang là nhôm oxit hoặc nhôm silicat.

Tổng số đánh giá:

Xếp hạng: / 5 sao

Các khái niệm hoá học liên quan

Hợp chất

Trong hóa học, hợp chất là 1 chất được cấu tạo bởi từ 2 nguyên tố khác loại trở lên, với tỷ lệ thành phần cố định và trật tự nhất định. Thành phần của hợp chất khác với hỗn hợp, ở chỗ không thể tách các nguyên tố hóa học ra khỏi hợp chất bằng phương pháp vật lý. Trái ngược với hợp chất là đơn chất. Nói chung, tỷ lệ cố định này phải tuân theo những định luật vật lý, hơn là theo sự lựa chọn chủ quan của con người. Đó là lý do vì sao những vật liệu như đồng thau, chất siêu dẫn, YBCO, chất bán dẫn, nhôm gali arsen hoặc sô-cô-la được xem là hỗn hợp hoặc hợp kim hơn là hợp chất.

Xem chi tiết

Enzim

Enzym còn gọi là men là chất xúc tác sinh học có thành phần cơ bản là protein.Trong cuộc sống sinh vật xảy ra rất nhiều phản ứng hóa học, với một hiệu suất rất cao, mặc dù ở điều kiện bình thường về nhiệt độ, áp suất, pH. Sở dĩ như vậy vì nó có sự hiện diện của chất xúc tác sinh học được gọi chung là enzyme. Như vậy, enzym là các protein xúc tác các phản ứng hóa học. Trong các phản ứng này, các phân tử lúc bắt đầu của quá trình được gọi là cơ chất, enzym sẽ biến đổi chúng thành các phân tử khác nhau. Tất cả các quá trình trong tế bào đều cần enzym. Enzym có tính chọn lọc rất cao đối với cơ chất của nó. Hầu hết phản ứng được xúc tác bởi enzym đều có tốc độ cao hơn nhiều so với khi không được xúc tác. Có trên 4 000 phản ứng sinh hóa được xúc tác bởi enzym. Hoạt tính của enzym chịu tác động bởi nhiều yếu tố. Chất ức chế là các phân tử làm giảm hoạt tính của enzym, trong khi yếu tố hoạt hóa là những phân tử làm tăng hoạt tính của enzym.

Xem chi tiết

Vỏ hàu giúp chữa các khuyết tật về xương

phương pháp tiêu chuẩn để sửa chữa các khuyết tật trong xương là cấy ghép mô, trong đó bác sĩ phẫu thuật sẽ lấy xương từ nơi khác trong cơ thể, ví dụ xương hông, để lấp kín kẽ hở của xương. Tuy nhiên, quy trình này rất đau đớn và có thể gây ra các biến chứng khác tại vị trí lấy xương. Ngoài cách đó ra, các bác sĩ phẫu thuật cũng có thể lấp kín vị trí khiếm khuyết trong xương bằng cách sử dụng vữa hoặc xi măng xương, chẳng hạn canxi sunphat. Nhưng những vật liệu này thường không hỗ trợ tốt nhất cho sự phát triển của xương mới. Ví dụ, canxi sunphat thoái hóa nhanh hơn so với tốc độ hình thành xương mới.

Xem chi tiết

Đồng đẳng

Những hợp chất hữu cơ có thành phần có thành phần phân tử hơn kém nhau một hay nhiều nhóm nguyên tử nhất định nhưng có tính chất hóa học tương tự nhau gọi là những chất đồng đẳng. Nói rõ hơn, những chất đồng đẳng tuy có thành phần khác nhau những nhóm nguyên tử nhất định nhưng vì có cấu tạo tương tự nhau nên chúng có tính chất hóa học cũng tương tự nhau.

Xem chi tiết

CO2 siêu tới hạn

CO2 ở trạng thái lỏng hoặc trạng thái siêu tới hạn là một trong những môi trường phản ứng được lựa chọn để thay thế cho các dung môi hữu cơ thông thường, bên cạnh các dung môi là chất lỏng ion và các hệ dung môi chưa nước. Việc sử dụng môi trường phản ứng mới này khoog những chỉ với mục đích giải quyết vấn đề độc hại và ô nhiễm môi trường, mà còn liên quan đến việc điều khiển ảnh hưởng của dung môi lên quá trình phản ứng.

Xem chi tiết
Xem tất cả khái niệm hoá học

Một số định nghĩa thường dùng

mol-11

Mol

4 thg 8, 2019

kim-loai-14

Kim loại

20 thg 11, 2019

nguyen-tu-15

Nguyên tử

20 thg 11, 2019

phi-kim-16

Phi kim

25 thg 12, 2019

benzen-19

Benzen

25 thg 12, 2019

phan-tu-22

Phân tử

1 thg 1, 2020

Chủ đề

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.